dân số nhật bản năm 2005 khoảng
VTV.vn - Đến năm 2065, dân số Nhật Bản dự báo giảm khoảng 40 triệu người. Đây là kết quả do viện Nghiên cứu dân số và xã hội Nhật Bản công bố vào giữa tháng 4 vừa qua. Dân số giảm khiến Nhật Bản đối mặt với nguy cơ giảm mức sống, giảm thu nhập đầu người
-Đặc biệt, dự báo đến năm 2025, dân số Nhật Bản sẽ giảm khoảng 10,7 triệu người so với năm 2005 ( chỉ còn 117 triệu người so với 127,7 triệu người hiện nay). -Tỉ suất gia tăng dân
Hà Nội, 19/12/2019 - Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được tiến hành vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 theo Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 26/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở lần thứ năm ở Việt Nam kể từ khi đất nước thống nhất vào năm 1975.
Đây cũng là thành phố lớn nhất cả nước tính theo dân số và quy mô kinh tế. Bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh Dân số năm 2019 Quận 3 là 190.375 người. số người thường xuyên sinh sống và làm việc trên TPHCM khoảng 13 triệu, mật độ dân số trên 3.900 người/km2
Dân số Nga là bao nhiêu Theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc, dân số Nga hiện nay (năm 2021) là 145.893.311 người, chiếm 1,85% dân số trên thế giới. Trong đó, dân số trong thành thị là 74,75%. Độ tuổi trung bình ở Nga là 39,9 tuổi. Trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ thì Nga đứng thứ 9 trên thế giới.
Bảng 2.2: Hiện trạng dân số của tỉnh xiêng khoảng giai đoạn 2006- 2016; Bảng 2.3: Sự phát triển về số lượng của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Xiêng Khoảng giai đoạn năm 2010 - 2016; Bảng 2.4: Quy mô vốn đăng ký kinh doanh của DNNVV tại tỉnh Xiêng Khoảng giai đoạn 2010
Theo báo cáo của JICA, TP.HCM hiện đang tiếp tục sụt lún trung bình mỗi năm 2 cm, thậm chí có nơi đến 6 cm. Cá biệt một số khu vực, trong vòng 12 năm từ 2005 đến 2017 đã sụt lún 23 cm, có nơi đến 81 cm. JICA cho biết thêm, Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Miền
Kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam với khu vực Kyushu tăng từ 383 tỷ Yen năm 2019 lên 488,64 tỷ Yen năm 2021, tức là tăng 105,64 tỷ Yen (tương đương 1 tỷ USD (tỷ giá năm 2021); số người Việt Nam tăng từ hơn 40 nghìn người năm 2019 lên khoảng 45 nghìn người năm 2022.
nsansordecol1976. Thông tin nhanhDân số hiện tại của Nhật Bản là người vào ngày 11/06/2023 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp số Nhật Bản hiện chiếm 1,56% dân số thế Bản đang đứng thứ 11 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh độ dân số của Nhật Bản là 343 người/ tổng diện tích đất là dân số sống ở thành thị người vào năm 2019.Độ tuổi trung bình ở Nhật Bản là 49,6 số Nhật Bản năm 2023 ước tính và lịch sửXem phần Ghi chú để hiểu đúng số liệu trên năm 2023, dân số của Nhật Bản dự kiến sẽ giảm người và đạt người vào đầu năm 2024. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là âm vì số lượng sinh sẽ ít hơn số người chết đến người. Nếu tình trạng di cư vẫn ở mức độ như năm trước, dân số sẽ tăng người. Điều đó có nghĩa là số người chuyển đến Nhật Bản để định cư sẽ chiếm ưu thế so với số người rời khỏi đất nước này để định cư ở một nước ước tính của chúng tôi, tỷ lệ thay đổi dân số hàng ngày của Nhật Bản vào năm 2023 sẽ như sau trẻ em được sinh ra trung bình mỗi người chết trung bình mỗi ngày706 người di cư trung bình mỗi ngàyDân số Nhật Bản sẽ giảm trung bình người mỗi ngày trong năm khẩu Nhật Bản 2022Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, dân số Nhật Bản ước tính là người, giảm người so với dân số người năm trước. Năm 2022, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là âm vì số người sinh ít hơn số người chết đến người. Do tình trạng di cư dân số tăng người. Tỷ lệ giới tính trong tổng dân số là 0,953 953 nam trên nữ thấp hơn tỷ lệ giới tính toàn cầu. Tỷ lệ giới tính toàn cầu trên thế giới năm 2022 khoảng nam trên đây là những số liệu chính về dân số ở Nhật Bản trong năm 2022 trẻ được sinh người chếtGia tăng dân số tự nhiên ngườiDi cư nam giới tính đến ngày 31 tháng 12 năm nữ giới tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022 Biểu đồ dân số Nhật Bản 1950 - 2020Lưu ý Các số liệu trong biểu đồ và bảng bên dưới được lấy theo mốc thời gian ngày 1 tháng 7 hằng năm, có chút khác biệt với các số liệu ở trên. Biểu đồ tốc độ gia tăng dân số Nhật Bản 1951 - 2020 Bảng dân số Nhật Bản 1955 - 2020 NămDân số% thay đổiThay đổiDi cưTuổi trung bìnhTỷ lệ sinhMật độ% dân thành thịDân thành thị% thế giớiThế liệu được hiệu chỉnh theo phép sinh trung bình, Phòng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp báo dân số Nhật Bản NămDân số% thay đổiThay đổiDi cưTuổi trung bìnhTỷ lệ sinhMật độ% dân thành thịDân thành thị% thế giớiThế liệu được hiệu chỉnh theo phép sinh trung bình, Phòng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp độ dân số Nhật Bản Mật độ dân số của Nhật Bản là 343 người trên mỗi kilômét vuông tính đến 11/06/2023. Mật độ dân số được tính bằng cách lấy dân số của Nhật Bản chia cho tổng diện tích đất của đất nước. Tổng diện tích là tổng diện tích đất và nước trong ranh giới quốc tế và bờ biển của Nhật Bản. Theo Tổng cục Thống kê Liên Hợp Quốc, tổng diện tích đất của Nhật Bản là cấu tuổi của Nhật BảnCập nhật...Tính đến đầu năm 2017 theo ước tính của chúng tôi, Nhật Bản có phân bố các độ tuổi như sau - dưới 15 tuổi - từ 15 đến 64 tuổi - trên 64 tuổiSố liệu dân số theo độ tuổi ước lượng thanh thiếu niên dưới 15 tuổi nam / nữ người từ 15 đến 64 tuổi nam / nữ người trên 64 tuổi nam / nữChúng tôi đã chuẩn bị một mô hình đơn giản hóa của tháp dân số được chia thành 3 nhóm tuổi chính. Các nhóm giống như chúng ta đã sử dụng ở trên dân số dưới 15 tuổi, từ 15 đến 64 tuổi và dân số từ 65 tuổi trở lệ dân số phụ thuộc theo độ tuổi 2022Tỷ lệ dân số phụ thuộc là tỷ lệ của những người không có khả năng lao động người phụ thuộc trên lực lượng lao động của một quốc gia. Phần phụ thuộc bao gồm dân số dưới 15 tuổi và người từ 65 tuổi trở lên. Lực lượng lao động bao gồm dân số từ 15 đến 64 tỷ lệ dân số phụ thuộc ở Nhật Bản năm 2022 là 69,7%.Tỷ lệ trẻ em phụ thuộcTỷ lệ trẻ em phụ thuộc là tỷ lệ người dưới độ tuổi lao động dưới 15 tuổi so với lực lượng lao động của một quốc lệ trẻ em phụ thuộc ở Nhật Bản là 20,7%.Tỷ lệ người cao tuổi phụ thuộcTỷ lệ người cao tuổi phụ thuộc là tỷ lệ người trên độ tuổi lao động 65+ so với lực lượng lao động của một quốc lệ người cao tuổi phụ thuộc ở Nhật Bản là 49,0%.Tuổi thọ 2022Tuổi thọ là một trong những chỉ số nhân khẩu học quan trọng nhất. Nó cho biết thời gian từ lúc một người được sinh ra cho đến khi chết tuổi thọ cả hai giới tính ở Nhật Bản là 84,9 số này cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới 72 tuổi.Tuổi thọ trung bình của nam giới là 81,8 thọ trung bình của nữ giới là 88,0 tuổi. số liệu không khớp, sai, ... Ghi chúSố liệu Dân số trong bảng và biểu đồ dân số Nhật Bản 1955 - 2020 qua các năm được lấy vào thời điểm ngày 1 tháng 7 của mỗi năm. Thời điểm mới nhất, nếu chưa đến ngày 1 tháng 7 thì đó là số liệu ước số liệu như Thay đổi, % thay đổi, di cư, tỷ lệ sinh,... trong hai bảng dân số là số liệu trung bình theo chu kỳ 5 liệu Tỷ lệ gia tăng dân số trong biểu đồ tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm là tỷ lệ phần trăm dân số tăng hàng năm dựa trên số liệu dân số vào ngày 1 tháng 7 của mỗi năm, từ năm 1951 đến năm 2020. Giá trị này có thể khác với % Thay đổi hàng năm thể hiện trong bảng dân số qua các năm, thể hiện tỷ lệ thay đổi trung bình mỗi năm trong 5 năm trước cư hay Di dân là sự thay đổi chỗ ở của các cá thể hay các nhóm người để tìm chỗ ở tốt hơn, phù hợp hơn nơi ở cũ để định cư từ quốc gia này đến quốc gia khác. Di cư bao gồm Nhập cư những người đến để định cư và Xuất cư những người rời khỏi để định cư ở một 'quốc gia' khác.Nguồn Số liệu trên được xây dựng dựa theo các số liệu và ước tính của Liên hợp quốc.
127 triệu người. 127 triệu người. 172 triệu người. 172 triệu người. Đáp án và lời giải Đáp ánB Lời giảiDân số Nhật Bản năm 2005 khoảng 127,7 triệu người. Câu hỏi thuộc đề thi sau. Bạn có muốn thi thử? Trắc nghiệm 20 phút Địa Lý lớp 11 - Nhật Bản - Đề số 4 Làm bài Một số câu hỏi khác cùng bài thi. Nông nghiệp của Nhật có đặc điểm là Sản lượng đánh bắt hải sản của Nhật Bản năm 2003 là Các sản phẩm nổi bật trong ngành công nghiệp điện tử của Nhật Bản là Địa hình của Nhật đã tạo thuận lợi nhất cho việc Nhật Bản nằm trong khu vực khí hậu Trong thời kì 1990-2004 giá trị xuất khẩu của Nhật Bản thay đổi theo xu hướng Từ năm 1991 đến 2004, vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam là Năm 1985 sản lượng khai thác cá của Nhật Bản đạt khoảng Kiu-xiu là vùng kinh tế của Nhật có đặc điểm Dân số Nhật Bản năm 2005 khoảng Một số câu hỏi khác có thể bạn quan tâm. Từ các số tự nhiên 1, 2, 3, 4 có thể lập được bao nhiêu số tự nhiên có 4 chữ số khác nhau Cho B={1, 2, 3, 4, 5, 6}. Từ tập B có thể lập được bao nhiêu số chẵn có 6 chữ số đôi một khác nhau lấy từ tập B? Có 3 viên bi đen khác nhau, 4 viên bi đỏ khác nhau, 5 viên bi xanh khác nhau. Hỏi có bao nhiêu cách sắp xếp các viên bi trên thành một dãy sao cho các viên bi cùng màu ở cạnh nhau? Sắp xếp năm bạn học sinh An, Bình, Chi, Dũng, Lệ vào một chiếc ghế dài có 5 chỗ ngồi. Số cách sắp xếp sao cho bạn Chi luôn ngồi chính giữa là Từ các chữ số , , lập được bao nhiêu số tự nhiên có chữ số, trong đó chữ số có mặt lần, chữ số có mặt lần, chữ số có mặt lần? Một nhóm học sinh gồm 5 nữ, 5 nam. Hỏi có bao nhiêu cách xếp 10 bạn thành một hàng dọc sao cho các bạn cùng phái thì đứng cạnh nhau? Xếp 30 quyển truyện khác nhau được đánh số từ 1 đến 30 thành một dãy sao cho bốn quyển 1, 3, 5 và 7 không đặt cạnh nhau. Hỏi có bao nhiêu cách? Trên giá có 15 cuốn sách gồm 5 sách Toán, 7 sách Tiếng Anh và 3 sách Văn. Hỏi có bao nhiêu cách xếp thành một hàng sao cho sách cùng loại thì xếp cạnh nhau và sách Văn nằm giữa sáng Toán, sách tiếng Anh? Giá trị của biểu thức bằng Có bao nhiêu cách xếp cuốn sách Toán, cuốn sách Lý và cuốn sách Hóa lên một kệ sách sao cho các cuốn sách cùng một môn học thì xếp cạnh nhau, biết các cuốn sách đôi một khác nhau?
1. Giảm dân số và quy mô dân số thu hẹpNhư chúng ta đã biết, Nhật Bản đạt được tốc độ tăng trưởng dân số cao nhất vào những năm 1970, sau đó, tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm mạnh và duy trì ở mức dưới 1%/năm có lúc chỉ còn 0,3%/năm trong suốt những thập niên 1980, 1990 và đầu 2000. Năm 2008, Nhật Bản đạt đỉnh dân số với người, sau đó dân số liên tục giảm cho đến nay, và dự báo đến 2050, dân số Nhật Bản chỉ còn khoảng người, đến năm 2100 còn chưa đầy 50 triệu người. Nhật Bản sẽ dần chuyển thành xã hội dân số thấp[1].Biểu đồ 1 Biến động dân số Nhật Bản trong dài hạn từ năm 1500 - năm 2100[2]Theo tính toán của Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, từ năm 2010 đến 2060, Nhật Bản sẽ sụt giảm khoảng 1/3 dân số, tức là người. Quy mô giảm này còn lớn hơn toàn bộ dân số vùng Tokyo, Kanagawa, Osaka và tỉnh Aichi cộng lại. Dự báo quy mô dân số Nhật Bản vào năm 2060 sẽ thu hẹp bằng quy mô dân số năm 1950, tức là khoảng 85 triệu người, nhưng nhìn vào cơ cấu dân số lại thấy có sự khác biệt lớn. Nếu như cơ cấu dân số năm 1950 là dân số trẻ em từ 0-14 tuổi và dân số trong độ tuổi lao động từ 15-64 tuổi chiếm tới 95% dân số, dân số người già trên 65 tuổi chỉ chiếm 5% dân số, thì dân số dự báo vào năm 2060 có cơ cấu là trẻ em 0-14 tuổi và người trong độ tuổi lao động 15-64 tuổi chỉ chiếm gần 60% dân số, còn lại là người già trên 65 tuổi, chiếm tới 39,9% dân số trong đó, người già trên 75 tuổi chiếm 26,9% dân số, đưa đến một gánh nặng lớn cho xã hội Nhật đồ 2 Biến động trong cơ cấu dân số Nhật Bản[3]Như vậy, tốc độ gia tăng dân số chậm ở Nhật Bản diễn ra vào những năm 1975, đặc biệt từ những năm 1990 đến hết thập niên 2000, và từ năm 2008 bắt đầu suy giảm do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải kể đến nguyên nhân hàng đầu là do tỉ suất sinh thấp. Bảng sau thể hiện số trẻ em ra đời/tỉ suất sinh thô, số người chết/tỉ suất chết thô và tỉ suất sinh đặc thù số con trung bình/vòng đời người phụ nữ ở Nhật Bản từ năm 1990 đến 1 Tỉ lệ sinh và tỉ lệ tử vong ở Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2019[4]Qua bảng thống kê trên, có thể thấy tỉ suất sinh thô ở Nhật Bản gần như liên tục giảm từ năm 1990 đến nay, còn tỉ suất sinh đặc thù cũng luôn ở mức rất thấp, dưới 1,5 con/vòng đời người phụ đã phân tích ở chương 1, từ những năm 1960, xã hội Nhật Bản chuyển từ mô hình “sinh nhiều tử nhiều” sau chiến tranh, sang mô hình “sinh nhiều tử ít”, tỉ suất sinh đặc thù lúc này vào khoảng 2,1 con/vòng đời người phụ nữ. Nhưng vào những năm 1971 đến 1974, ở Nhật Bản xảy ra hiện tượng bùng nổ dân số lần thứ hai. Năm 1973, cú sốc dầu lửa lần thứ nhất đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Nhật Bản, đưa đến suy nghĩ cần phải ổn định sự tăng trưởng dân số, không để dân số tăng quá nhanh, từ năm 1975, tỉ lệ sinh đặc thù chuyển hướng giảm thấp dưới 1,9 và duy trì trong suốt thập niên 1980. Nửa cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 lại một lần nữa chứng kiến sự giảm thấp tỉ lệ sinh đặc thù xuống mức dưới 1,5, trong khi tỉ lệ sinh thay thế cần thiết lúc này phải là 2, Toàn cầu hóa và vấn đề di dân Từ những năm cuối thập niên 1990, đầu 2000, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, và Nhật Bản cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Toàn cầu hóa phủ sóng mọi lĩnh vực của đời sống, bắt rễ vào xã hội Nhật Bản, vốn trước đó là một xã hội tương đối khép kín và bài trừ người nước ngoài. Nếu như vào những năm đầu 1990, ở Nhật Bản mới chỉ có khoảng 1 triệu người nước ngoài sinh sống, thì tới những năm cuối thập niên 2000, con số này đã tăng hơn gấp đôi, lên đến người vào năm 2010, chiếm 1,63% dân số Nhật Bản[5]. Còn theo số liệu của Bộ Tư pháp Nhật Bản công bố vào tháng 6 năm 2018, ở Nhật Bản hiện có người nước ngoài, chủ yếu đến từ các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Philippines, Brazil, Nepal, Đài Loan, Mỹ, Indonexia, Thái Lan và một số quốc gia khác...Biểu đồ 3 Cơ cấu người nước ngoài tại Nhật Bản[6]Bảng 2 So sánh số người nước ngoài ở Nhật Bản theo quốc tịch và khu vực[7] Như vậy, có thể thấy rằng, cùng với toàn cầu hóa, dòng người nước ngoài đến Nhật Bản sinh sống và làm việc đã không ngừng tăng lên trong 3 thập kỷ qua, so với năm 1990, thì con số người nước ngoài tại Nhật Bản đã tăng gấp 2,5 lần, đặc biệt là du học sinh, thực tập sinh và người lao động. Ở chiều ngược lại, số người Nhật Bản ra nước ngoài sinh sống, học tập và làm việc cũng lên đến người vào năm 2017, tăng gấp 2,3 lần so với năm 1989 người và là mức tăng cao nhất kể từ khi Bộ Ngoại giao Nhật Bản thực hiện thống kê từ năm 1968[8]. Trong số những người Nhật ở nước ngoài, có người sinh sống trong thời gian dài hạn từ 3 tháng trở lên, chiếm 64%, ngoài ra, người có quyền cư trú vĩnh Sự biến đổi gia Hộ đơn thân hộ 1 người phát triển mạnh, quan niệm không cần hôn nhân, không sinh conNhững biến đổi của gia đình Nhật Bản đã âm thầm diễn tiến từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến những thập niên 1970-1980, và càng trở nên sâu sắc trong thập niên 1990. Từ mô hình gia đình trực hệ, “tam đại đồng đường” - chung sống nhiều thế hệ, với nền tảng là chế độ “Ie” nhà, quyền lợi tập trung vào người con trai trưởng và người này cũng có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ lúc về già, gia đình Nhật Bản sau chiến tranh đã chuyển sang mô hình “gia đình hạt nhân”, chỉ có bố mẹ và con, con cái sau khi lập gia đình không cùng chung sống với bố kinh tế phát triển nhanh chóng vào những năm 1960-1970, đời sống được nâng cao, người Nhật Bản bắt đầu ưu tiên những lợi ích cá nhân hơn là trách nhiệm đối với gia đình và cộng đồng. Sự ưu tiên tự do cá nhân, bình đẳng giới, phụ nữ học lên cao và đi làm, quan niệm về hôn nhân và sinh con thay đổi, tình trạng kết hôn muộn hoặc không kết hôn, không sinh con... đã đưa đến sự biến chuyển sâu sắc trong các gia đình ở Nhật Bản. Nếu như ngay sau chiến tranh, quy mô gia đình Nhật Bản vẫn lớn với trung bình là 4,5 người/hộ gia đình, thì từ thập niên 1990 quy mô gia đình thu hẹp, gia đình đơn thân tăng lên, số người trung bình trong một hộ gia đình chỉ còn xấp xỉ 2,5 người/hộ gia đình, hộ gia đình đơn thân - gia đình một người chiếm tỉ lệ cao. Theo kết quả điều tra về gia đình và giới, tỉ lệ của tuýp người theo chủ nghĩa “cá nhân hóa gia đình” vào năm 2008 là 24%, như vậy, cứ 4 người Nhật thì lại có 1 người thuộc tuýp này[9].Biểu đồ sau thể hiện sự thay đổi của cơ cấu hộ gia đình ở Nhật Bản từ năm 1980 đến năm 2020 và dự báo đến năm 2050. Qua các con số thống kê, chúng ta có thể thấy, vào năm 2020 số hộ đơn thân hộ đã cao hơn số hộ gia đình có cả vợ chồng và con hộ, và xu hướng sống độc thân này tiếp tục diễn tiến mạnh mẽ, tới năm 2050, số hộ một người hộ cao hơn gấp đôi so với gia đình có đầy đủ vợ, chồng và con 745 hộ.Biểu đồ 4 Sự thay đổi cơ cấu các hộ gia đình ở Nhật Bản[10] Ở Nhật Bản, quan niệm về hôn nhân, gia đình cũng có nhiều thay đổi. Từ nửa sau thập niên 1970 bắt đầu xuất hiện tình trạng không kết hôn, kết hôn muộn ở phụ nữ trong độ tuổi 20, và đến thập niên 1980 thì ngay cả những phụ nữ trên 30 tuổi cũng không muốn lấy chồng, hoặc lấy chồng muộn. Người ta đổ lỗi cho việc bình đẳng giới và giáo dục bậc cao phổ cập ở phụ nữ, bên cạnh một thực tế là cả hai giới nam và nữ đều ưu tiên lợi ích cá nhân và mong muốn tự do, muốn được hưởng thụ trong một xã hội kinh tế phát triển vượt bậc. Nền kinh tế phát triển bùng nổ quá nhanh, nhận thức xã hội còn chưa theo kịp, rất nhiều giá trị truyền thống bị phá vỡ, trong đó có các giá trị quan về gia đình, về trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình và xã kết quả của cuộc điều tra “Ý thức người Nhật Bản” được Viện Nghiên cứu truyền thông NHK tiến hành 5 năm một lần, từ năm 1993, ý thức kết hôn của người Nhật Bản giảm thấp. Từ năm 1993, số người cho rằng “không cần hôn nhân” đã cao hơn số người “mong muốn kết hôn”. Ở nữ giới, nữ thanh niên theo quan niệm “không hôn nhân” nhiều hơn thế hệ trước họ, cho thấy khuynh hướng không kết hôn ngày càng trở nên rõ nét ở thế hệ trẻ. Theo kết quả điều tra năm 2008, ở nữ giới, tỉ lệ nữ thanh niên cho rằng “không cần hôn nhân” nhiều hơn tỉ lệ này ở phụ nữ trên 30 tuổi, chiếm tới hơn 80%, đặc biệt, tỉ lệ này ở nữ thanh niên 20 tuổi lên đến gần 90%. Tỉ lệ nam thanh niên “không cần hôn nhân” cũng cao, nhưng so với nữ giới, vẫn ở mức dưới 80%.Bảng 3 Quan niệm “không hôn nhân” của nam, nữ Nhật Bản[11]Chú thích Bảng trên biểu thị kết quả điều tra về sự khác biệt ở nam và nữ, ở người chưa kết hôn và đã kết hôn trong quan niệm cho rằng “không cần hôn nhân”. Một kết quả điều tra khác cho thấy, có mối quan hệ giữa việc “có bằng cấp cao” và “không lấy chồng” ở nữ giới Nhật Bản. Từ những năm 1990, tỉ lệ “không kết hôn” ở cả hai giới đều gia tăng, nhưng tỉ lệ nữ giới có “bằng cấp cao” trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học không lấy chồng nhiều hơn ở người “tốt nghiệp phổ thông trung học”. Ở nữ giới có bằng cấp cao, nếu như tỉ lệ không kết hôn vào thời điểm điều tra năm 1993 chỉ là 14% thì đến năm 2008 đã tăng lên đến 58%, cho thấy càng học cao, phụ nữ càng ít nghĩ đến chuyện lấy chồng[12].Về lý do chưa hoặc không kết hôn, có 37% nghĩ rằng “do mình còn trẻ”, 15% nghĩ rằng “do không cảm thấy sự cần thiết hoặc ý nghĩa của hôn nhân”, 20% cho rằng “vì muốn dồn sức cho công việc hoặc việc học tập”, 15% nghĩ rằng “vì muốn làm những điều mình thích trước đã”, 15% “không muốn đánh mất tự do và lạc thú của bản thân”, 31% “chưa gặp được đối tượng thích hợp”, 12% “không có cơ hội gặp người khác giới”, 17% “do không có tiền”. Điều này cho thấy, không phải tất cả những suy nghĩ trên đều phủ định hôn nhân. Tuy nhiên, các quan niệm xã hội trong quá khứ về hôn nhân đã mất dần, và vai trò quyết định tuyệt đối của mỗi cá nhân trong việc lựa chọn giữa “kết hôn” hay “không kết hôn” đã tăng vấn đề kết hôn muộn ở Nhật Bản, một cuộc điều tra của Văn phòng Nội các Nhật Bản về độ tuổi kết hôn lần đầu ở nam, nữ năm 2015 cho thấy, nam giới trong độ tuổi từ 30-34 tuổi có tới 47,1% chưa kết hôn, trong khi tỉ lệ này ở nữ giới là 23,9%, có nghĩa là mặc dù đã ngoài 30 tuổi, nhưng có tới ½ nam giới và 1/3 nữ giới ở Nhật Bản chưa kết hôn. Xem xét tình trạng này ở độ tuổi từ 35-39 tuổi, có thể thấy 35,0% nam giới chưa kết hôn 1/3, và 23,9% nữ giới chưa kết hôn 1/4[13].Biểu đồ 5 Sự biến đổi về tỉ lệ chưa kết hôn ở nam nữ Nhật Bản từ 1960 đến 2015[14]Biểu đồ trên thể hiện sự biến đổi về tỉ lệ chưa kết hôn ở nam, nữ Nhật Bản với chiều hướng gia tăng liên tục từ năm 1960 đến 2015, đặc biệt, tỉ lệ chưa kết hôn tăng cao từ giữa thập niên 1980 đến năm 2010, cho thấy tình trạng kết hôn muộn ngày càng trầm trọng ở Nhật nguyên nhân khác dẫn đến thực trạng “xã hội ít trẻ em ở Nhật Bản”, ngoài các nguyên nhân do kết hôn muộn hoặc không kết hôn, còn có nguyên nhân nằm ở sự thay đổi trong quan niệm về vấn đề “sinh con” của người Nhật Bản. Trật tự truyền thống “hôn nhân - tình dục - có con” bị phá vỡ, số người theo chủ nghĩa “không sinh con” đã gia tăng liên tục từ những năm 1970 đến nay. Theo “Thống kê tình hình dân số” của Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản, vào năm 1973, khi cuộc bùng nổ dân số Nhật Bản lần thứ hai đang ở đỉnh cao, có trẻ em ra đời mỗi năm. Nhưng đến năm 2003, con số này chỉ còn là trẻ/năm, đến năm 2008, tiếp tục giảm sút, còn trẻ/năm, chỉ bằng ½ so với thời điểm năm 1973, còn năm 2018, chỉ còn trẻ em ra đời mỗi đề đáng ngại nhất là ý thức “không sinh con” ngày càng trở nên phổ biến ở Nhật Bản. Vào những năm đầu 1990, tỉ lệ cho rằng “cần có con” đã ở mức khá thấp - là 54%, đến năm 1998 giảm xuống còn 48%, và từ năm 2003, số người theo khuynh hướng “không cần có con” đã vượt trên số người cho rằng “cần có con”.Biểu đồ 6 Quan niệm về vấn đề sinh con[15]Ngô Hương LanTrung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á[1] Sách trắng Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, Trang web Văn phòng Nội các Nhật Bản Sách trắng Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, Bảng do người viết tổng hợp từ nguồn Năm 1990, có người nước ngoài sinh sống tại Nhật Bản theo các hình thức visa khác nhau, chiếm 0,87% dân số Nhật Bản. Nguồn Website Bộ Tư pháp Nhật Bản, truy cập ngày 11/09/2020 [7] Nguồn Website Bộ Tư pháp Nhật Bản, truy cập ngày 11/09/2020 Nguồn Website Bộ Ngoại giao Nhật Bản truy cập ngày 12/09/2020.[9] Ngô Hương Lan, Đề tài NCKH cấp cơ sở năm 2010.[10] Nguồn Thống kê dự báo của Bộ Nội vụ, 2019. Website Bộ Nội vụ Nhật Bản, truy cập ngày 12/09/2020, Nguồn “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, Nguồn “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, Sách trắng về ứng phó với xã hội già hóa, Văn phòng Nội các Nhật Bản, năm 2018.[14] Điều tra về thực trạng hôn nhân của người Nhật Bản hiện nay Ngô Hương Lan, Đề tài NCKH cấp cơ sở Văn hóa – xã hội Nhật Bản Những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến 2020, năm 2010, liệu tham khảo1. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 19882. 『近代日本の地域社会』、今西一、日本経済評論社出版、2009年 Imanishi Hajime 2009, Cộng đồng địa phương Nhật Bản hiện đại, keizai Hyoronsha3.『共同体の論理』松本健一、第三文明社、1978年 Matsumoto Kenichi 1978, Lý thuyết về tính cộng đồng, san Bunmei sha4.『家族と地域社会』川越淳二、1990年、名著出版 Kawagoe Junji 1990, Gia đình và cộng đồng địa phương, Điều tra so sánh đối chiếu về ý thức xã hội ở các quốc gia Nhật - Trung - Hàn, Viện Nghiên cứu tổng hợp, Đại học Phật giáo, Kyoto, 20016.『家族と地域社会』川越淳二、名著出版、1990年 Kawagoe Junji 1990, Gia đình và xã hội địa phương, 19907. 『家と共同体:日欧比較視点から』、岩本由輝、國方敬司、法政大学出版局、1997年 Gia đình và cộng đồng Từ quan điểm đối chiếu Nhật – Âu, Iwamoto Yoshiteru, Kunikata Keiji đồng chủ biên, NXB Đại học Hosei, 19978. 『家族の古代史:恋愛・結婚・子育て』梅村恵子、歴史文化ライブラリー227、2007年 Umemura Keiko, Gia đình thời cổ đại Yêu – Kết hôn và nuôi dạy con cái, NXB Thư viện văn hóa lịch sử, quyển số 227, năm 20079. 『家族と人口の歴史社会学』斎藤修、リブロポート、1988年 Saito Osamu, Xã hội học lịch sử về gia đình và dân số, NXB Libro, 198810. 『人口減少社会、未来への責任と選択』厚生省大臣官房政策課編、ぎょうせい出版社、1998年 Xã hội suy giảm dân số, trách nhiệm và sự lựa chọn tương lai, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 199811. 日本内閣府ホームページ:Website Văn phòng Nội các Nhật Bản Thống kê, Bộ Nội vụ Nhật Bản 厚生労働白書、平成30年版 Sách trắng Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, năm 201814. 『平成30年国民生活基礎調査(平成28年)の結果からグラフでみる世帯の状況』、厚生労働省政策統括官(統計・情報政策担当)Tình hình các hộ gia đình ở Nhật Bản qua biểu đồ - Từ kết quả Điều tra cơ bản đời sống nhân dân 2016, Cục trưởng Cục Tổng quát Chính sách, Bộ Y tế và Lao Động, 201815. 『令和元年(2019)人口動態統計の年間推計』政府統計、厚生労働省のホームページ掲載 Thống kê hàng năm về động thái dân số Nhật Bản, Số liệu thống kê của chính phủ, đăng trên trang web Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, 2019
Oops! Không tìm thấy trang này. Có vẻ như không có gì được tìm thấy ở vị trí này. Thử tìm kiếm?
Câu hỏi và phương pháp giải Nhận biếtDân số Nhật Bản năm 2005 khoảng A. Gần 127 triệu người. B. Trên 127 triệu người. C. Gần 172 triệu người. D. Trên 172 triệu người. Đáp án đúng BLời giải của Luyện Tập 247Giải chi tiếtDân số Nhật Bản năm 2005 khoảng là 127,7 triệu B. * Xem thêm Ôn tập địa lí cơ bản và nâng cao. Tổng hợp đầy đủ lý thuyết, công thức, phương pháp giải và bài tập vận dụng.